Thứ Hai, 2 tháng 5, 2016
Thực trạng nhà máy sản xuất thép tại Việt nam rất đáng quan ngại !
Trích 1 phần trong bài
Nước thải
Trong các nhà máy luyện gang thép bằng phương pháp truyền thống (sử dụng oxy trong lò đốt), nước làm lạnh thường bị nhiễm kim loại nặng và chất bôi trơn nên không được tái sử dụng, và được thải bỏ ra bên ngoài cùng với nước thải từ các nguồn khác nhau [1], [4].
Trung bình sản xuất một tấn sản phẩm sẽ thải ra khoảng 80m3 nước thải [1]. Nước thải này nhiệt độ rất cao vì có hòa trộn nước làm mát. Thành phần của nước thải từ ngành luyện gang thép rất khó xử lý, vì bao gồm nhiều hoá chất độc hại như phenol, xyanua, ammonia, dầu, kim loại nặng, và một số chất hữu cơ khác [1], [5].
Nồng độ của một số chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất thép, theo tính toán của WB/UNEP/UNIDO/WHO từ các nhà máy luyện gang thép trước năm 1999 [1].
Tổng rắn lơ lửng 4000-7000mg/l;
Xyanua 15mg/l;
COD (nhu cầu oxy hóa học) 500mg/l;
Kẽm 35mg/l;
Chì 8mg/l;
Cadimi 0,4 mg/l
Crom 5 mg/l
Thử hình dung nếu nồng độ chất thải như trên, và lưu lương thải mỗi ngày của các nhà máy luyện gang thép lên đến hàng chục nghìn mét khối nước thải, nghĩa là sẽ phát sinh ra hàng tấn chất thải trong nước. Câu hỏi đặt ra là liệu chúng có được xử lý triệt để khi đòi hỏi công nghệ xử lý phức tạp và chi phí xử lý sẽ tiêu tốn một lượng lớn ngân sách của nhà máy? Nếu không, hiểm họa môi trường là điều khó tránh khỏi.
Quay trở lại với một trường hợp điển hình là tập đoàn luyện thép AK, năm 2010, tập đoàn luyện thép AK bị xếp hạng 1 trong danh sách các công ty gây ô nhiễm ở Mỹ, vì đã thải ra sông khoảng 13517 tấn hóa chất, trong đó khoảng 11022 tấn chất thải hóa chất xuống dòng sông Ohio, và 2495 tấn hóa chất thải xuống dòng sông Muskingum [6],[7].
Vì vậy nếu nước thải không được xử lý một cách hiệu quả và đúng tiêu chuẩn quy đinh, mỗi ngày sẽ có hàng tấn chất thải sẽ thải ra môi trường nước, và hậu quả sẽ huỷ hoại không chỉ môi trường nước mặt, nước ngầm tại khu vực mà còn các vùng lân cận tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất của nhà máy.
Hình 3: Nước thải tại cống xả thải của một nhà máy luyện gang thép ở Ấn Độ [2].
Tác hại của chất ô nhiễm trong nước thải đến sức khỏe cộng động và môi trường
Xyanua: cụ thể là các dung dịch CaCN2 (Calcium cyanamide), Ca(CN)2 (Calcium cyanide) và NaCN (sodium cyanide), được sử dụng trong công nghiệp luyện gang thép, dùng để tách các tạp chất, và tăng độ bền của bề mặt kim loại [8]. Xyanua theo nước thải ra trong môi trường nước thường tồn tại dạng muối có gốc (CN-), là chất hoạt động mạnh và độc tố cao với sinh vật.
Đối với sinh vật biển, cá và động vật không xương sống rất nhạy cảm với xyanua. Nồng độ xyanua trong nước từ 5 đến 7.2 mg/l có thể làm giảm khả năng bơi và ức chế quá trình sinh sản của một số loài cá. Nồng độ từ 20 đến 76 mg/l có thể gây chết một số loài sinh vật biển và cá. Nếu nồng độ tăng đến 200 mg/l sẽ gây độc cực mạnh và có thể giết hầu hết tất cả các loại cá [9].
Ở người, nhiễm độc xyanua thông qua việc hít thở không khí, nước uống có nhiễm xyanua hoặc thông qua chuỗi thức ăn (hải sản có nhiễm xyanua). Cơ chế gây độc của xyanua là ức chế sự hấp thụ oxy của tế bào, vì vậy xyanua gây tổn hại nhiều nhất đến tim và não vì hai cơ quan này sử dụng nhiều oxy. Các triệu chứng biểu hiện khi nhiễm độc xyanua trong vài phút đầu như nhứt đầu, choáng váng, ói mửa, khó thở, tim đập nhanh, cơ thể yếu dần. Nếu nhiễm độc với nồng độ lớn thì có thể rối loạn nhịp tim, thân nhiệt giảm, môi và mặt tím tái, hôn mê sâu…dẫn đến tử vong [10].
TSS (thể huyền phù: tổng chất rắn lơ lửng): là những chất rắn có kích thước lớn hơn 2μm, không tan trong nước, và kém khả năng lắng. TSS là nguyên nhân gây độ đục cho nước. Nồng độ TSS càng cao thì gây ra các hiện tượng như giảm khả năng khuếch tán ánh sáng, tăng nhiệt độ của nước, và giảm lượng oxy hòa tan ở tầng dưới. Việc này dẫn đến quá trình phân hủy kỵ khí của các chất hữu cơ, làm giảm oxy hòa tan và sinh ra các hợp chất khí như CH4, H2S, …gây ngộ độc cho sinh vật biển [11].
COD (nhu cầu oxy hóa hoc) là lượng oxy cần thiết để oxy hoá các hợp chất hữu cơ hòa tan và lơ lửng trong nước. COD thường được sử dụng để ước lượng gián tiếp nồng độ các chất hữu cơ trong nước. Có thể hiểu một cách tương đối rằng: khi hàm lượng các chất hữu cơ tăng cao, chúng sẽ khử hết oxy trong nước. Vì vậy, COD trong nước cao sẽ gây thiếu oxy trong nước cho sinh vật biển và có thể dẫn đến ngộ độc [11].
Ô nhiễm kim loại nặng, độc giả có thể theo dõi bài viết: “Chuyện bé như hạt gạo hay thảm họa quốc gia: Nguy cơ ngộ độc kim loại nặng ven biển miền Trung và những tác hại lâu dài”, trên trang web của tạp chí Vietnam Journal of Science (VJS) [12].
FB @ Lee
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét